Thôn Đông Ngàn, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội
Cụm di tích đình đền chùa Đông Ngàn thuộc thôn Đông Ngàn, xã Đông Anh, ngoài ra di tích còn có tên Long Tửu là gọi theo tên nôm của làng. Xưa kia, vì có nghề nấu rượu ngon nổi tiếng được tiến vua và đem bán khắp kinh thành nên làng có tên là Long Tửu. Làng Đông Ngàn hay làng Long Tửu gắn với truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân với những tướng lĩnh tài ba xuất chúng. Căn cứ vào thần tích, thần phả và truyền thuyết còn lưu giữ, làng xuất hiện từ buổi đầu bình minh dựng nước. Trải qua năm tháng của thời gian, làng Long Tửu đã kiến tạo nên những công trình văn hóa phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của người dân địa phương.
Căn cứ vào các di vật còn lưu giữ ở đền như thần tích, sắc phong, đồ thờ tự có thể đoán định đền được xây dựng vào cuối thời Hậu Lê và trùng tu nhiều lần vào thời Nguyễn. Năm 1954, dân làng tiến hành nâng đền và sửa lại một số cấu kiện gỗ. Năm 1995, đền tiếp tục được trùng tu. Năm 2002, đền lại được tu sửa, tôn tạo như hiện nay.
Đền Hạ Đông Ngàn thờ thần Quốc Lang đại vương (Lãng Công). Ông đã cùng Khang Công và Khiết Công tương truyền đã có công lớn trong việc giúp Thánh Gióng đánh giặc Ân. Chiến thắng trở về, 3 vị được vua Hùng phong chức Khang là Bảo Khang đại vương, Khiết Công là Minh Khiết đại vương, Lang Công là Quốc Lang đại vương, đồng thời cho phép dân trang Đông Ngàn tôn thờ 3 vị làm Thành hoàng làng. Đền Hạ thờ riêng Quốc Lang đại vương.
Đền Hạ Đông Ngàn tọa lạc trên khu đất cuối làng gần cơ đê quay hướng Nam nhìn ra sông Đuống. Phía trước di tích là một khoảng sân nhỏ lát gạch, xung quanh có trồng nhiều cây xanh bóng mát. Đặc biệt di tích còn giữ được cây đại với hàng trăm năm tuổi. Đền Hạ có quy mô nhỏ, bố cục kiến trúc kiểu chữ “đinh” gồm tiền tế và hậu cung.
Tiền tế là một nếp nhà ngang gồm 3 gian xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai nối liền trụ biểu. Mái lợp ngói ta dạng ngói mũi hài, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh với hàng hoa chanh chạy từ hai đầu hồi, chính giữa bờ nóc đắp biểu tượng hình tam sơn, gắn chiếc đĩa sứ men trắng vẽ lam hình rồng. Phía trước nhà tiền tế mở 3 cửa hình chữ nhật kiểu bức bàn.
Hậu cung đền chạy dọc về phía sau nối liền thông với tiền tế gồm 2 gian kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, hai bên tường hồi trổ hai cửa hoa nhỏ bằng gạch tạo sự thông thoáng cho di tích, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Ở chính gian giữa xây một bệ thờ bằng gạch áp sát tường hậu, bài trí long ngai bài vị thờ Thánh và các đồ thờ. Bên phải đền có một am thờ nhỏ xây bằng gạch đổ trần thờ Hoàng Đức Nhuận. Trước đây, am thờ ở gần sát chân đê, đến năm 1997 được dân làng chuyển về vị trí gần sát đền như hiện nay.
Trải qua thời gian dài tồn tại, đến nay di tích hiện còn lưu giữ được các di vật quý như bản sao thần tích, thần sắc, 7 đạo sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767), Tự Đức thứ 7 (1854), 2 sắc phong Tự Đức thứ 10 (1857), 2 sắc phong Duy Tân thứ 3 (1909), Khải Định thứ 9 (1924), 1 cỗ long ngai thếp vàng, tạo tác ở thế kỷ XIX, hương án, cửa võng, hoành phi, câu đối, tất cả đều được sơn son thếp vàng, tạo tác ở thế kỷ XX. Hội làng tổ chức chung vào các ngày sinh, ngày hóa của Thần cùng với 2 đền Thượng và đền Trung Đông Ngàn.
Di tích đền Hạ Đông Ngàn được xếp hạng di tích Lịch sử nghệ thuật cấp Thành phố tại Quyết định số 2404/QĐ-UBND ngày 4/12/2008.
Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân xã Đông Anh
Chịu trách nhiệm chính: Phòng Văn hóa - Xã hội xã Đông Anh