Thôn Xuân Canh, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội
Pháo đài Xuân Canh hiện nay thuộc thôn Xuân Canh, xã Đông Anh. Xưa kia, nơi đây là làng Vân Hoạch, xã Vân Hoạch, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. Di tích nằm sát bờ đê sông Đuống (ngã ba sông Đuống và sông Hồng), trong khu vực chùa Vân Hoạch. Đây là một trong những di tích cách mạng đặc biệt quan trọng, nằm trong hệ thống các di tích thời kỳ đầu toàn quốc kháng chiến (từ tháng 12/1946 đến đầu năm 1947) chống thực dân Pháp xâm lược.
Giữa năm 1946, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, nạn thù trong giặc ngoài đe dọa hòng lật đổ chính quyền non trẻ của nước ta vừa mới được thành lập. Thực dân Pháp công khai trắng trợn tấn công quân ta ở mọi nơi. Trước tình thế cấp bách, thừa lệnh của Trung ương, ngày 29/6/1946, tại sân Vệ quốc đoàn, đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội đã đọc quyết định thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô gồm ba trung đội: Pháo đài Láng, Pháo đài Xuân Tảo và Pháo đài Xuân Canh. Đây chính là những đơn vị pháo binh đầu tiên của quân đội ta, là hỏa lực chủ yếu trong cuộc chiến đấu bảo vệ thành Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến và chặn đánh địch trên sông Lô, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc trong chiến dịch Thu - Đông năm 1947.
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương, đồng chí Lê Đình Thiệp, Chủ tịch UBHC huyện Đông Anh đã về trực tiếp giao nhiệm vụ cho xã Đạt Tam (Xuân Canh sau này) phối hợp với bộ đội xây dựng pháo đài tại làng Vân Hoạch để bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Một tuần sau, pháo được chuyển về bằng một chiếc thuyền bồng. Ông Lê Văn Dậu - chủ thuyền - cùng con trai là Lê Văn Điểm, con rể là Nguyễn Văn Phú và một số cán bộ quân đội, du kích xã làm nhiệm vụ vận chuyển pháo cùng 14 hòm đạn bộ binh và đạn pháo thu được sau khi giành chính quyền từ tay Nhật. Đó là khẩu pháo DCA 75 ly cũ của Pháp, nặng cả bệ 5.800kg đã được tháo rời, được đưa xuống thuyền vượt sông về Xuân Canh. Nhân dân Xuân Canh đã chờ sẵn để chuyển pháo về địa điểm quy định. Vị trí đặt pháo được nghiên cứu chọn là một gò đất cao, sát đê, cách hậu cung chùa Vân Hoạch khoảng vài chục mét. Với địa thế này, khẩu pháo có thể khống chế toàn bộ khu vực ngã ba sông rộng lớn, có thể bắn vào thành Hà Nội và tới cả sân bay Gia Lâm của địch.
Lực lượng tổ chức pháo đài gồm một trung đội khoảng 30 người, có nhiều người là lính pháo thủ hoặc hạ sĩ quan của Pháp, gồm các đồng chí: Phạm Văn Đôn đại đội trưởng, Doãn Tuế, Hoàng Đình Minh, Nông Văn Cờ, Hoàng Bá Biểu, Nguyễn Văn Nhi, Nguyễn Văn Thông và y tá Trung đội Nguyễn Công Tâm, chính trị viên trung đội là đồng chí Trương Thành Phao. Trung đội pháo được bố trí ăn ở, tập luyện ở đình Xuân Đình. Nhân dân Xuân Canh ngoài việc vận chuyển, cất giấu, bảo quản pháo và đạn dược còn đóng góp tinh thần và vật chất cho bộ đội pháo đài. Nhiều gia đình đã ủng hộ tre, gỗ để xây dựng công sự và làm hầm cho pháo. Sư cụ Đàm Vân trụ trì chùa Vân Hoạch đã nhường phần lớn diện tích ngôi chùa làm nơi đóng quân cho bộ đội và để bộ đội đào công sự ở vườn chùa.
Cuối tháng 11/1946, những cố gắng của Trung ương Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong việc đàm phán với Pháp nhằm thoát khỏi một cuộc chiến tranh đã không thành hiện thực. Ở miền Bắc, quân địch đổ bộ lên Đồ Sơn, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị đánh chiếm Thủ đô Hà Nội nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của ta. Trước tình hình đó, ngày 18 - 19/12/1946, hội nghị bất thường của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng đã họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định cuộc kháng chiến toàn quốc và chỉ ra những vấn đề cơ bản về chủ trương, đường lối kháng chiến là phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Thực hiện quyết định của Trung ương và mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam, đúng 20h ngày 19/12/1946, đèn toàn thành phố Hà Nội vụt tắt, pháo đài Xuân Canh cùng với các pháo đài Láng, Xuân Tảo, đã hiệp đồng chặt chẽ, đồng loạt trút đạn xuống các mục tiêu: Thành Cửa Bắc, cầu Long Biên, sân bay Gia Lâm, trường Bưởi (nơi đóng quân của quân đội Pháp), mở màn cho cuộc kháng chiến toàn quốc, đã gây cho địch hoang mang và tổn thất nặng nề. Từ ngày 20/12/1946 trở đi, pháo đài Xuân Canh còn bắn nhiều lần để uy hiếp địch và yểm trợ cho nội thành chiến đấu. Sau đó địch phát hiện ra điểm pháo đài của ta ở Xuân Canh, chúng dùng máy bay chỉ điểm cho pháo binh bắn phá vào trận địa nhưng không phá được pháo đài.
Sau khi cùng bộ đội pháo đài Xuân Canh chiến đấu góp phần giam chân địch ở nội thành, quân và dân trong xã lại góp sức vào việc đưa trung đoàn Thủ đô sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chặn địch ở nội thành đã vượt sông Hồng an toàn để rút lên chiến khu Việt Bắc. Nhiều người dân trong xã (nhất là thôn Lực Canh) đã đem thuyền, xuồng ngay trong đêm 18/2 để vận chuyển cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn Thủ đô qua sông an toàn, cập bến Dâu Canh để tiếp tục hành quân về Ngọc Chi, Vĩnh Ngọc...
Với những thành tích và đóng góp to lớn trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cán bộ và nhân dân đã vinh dự được đón nhận nhiều phần thưởng cao quý của Đảng và nhà nước: 71 Huân, Huy chương kháng chiến các loại, 53 Huy chương kháng chiến, 57 Bằng khen của Chính phủ. Đặc biệt ngày 15/8/2003, Chủ tịch nước đã ký Quyết định phong tặng cho nhân dân và lực lượng vũ trang xã Xuân Canh danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 10/8/2004, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định số 69/2004/QĐ-BVHTT xếp hạng pháo đài Xuân Canh là Di tích lịch sử cấp quốc gia. UBND thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 4950/QĐ-UBND (10/8/2004) gắn biển lưu niệm sự kiện lịch sử - cách mạng kháng chiến cho pháo đài Xuân Canh.
Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân xã Đông Anh
Chịu trách nhiệm chính: Phòng Văn hóa - Xã hội xã Đông Anh