CHÙA MẠCH TRÀNG (LINH QUANG TỰ)

Thôn Mạch Tràng - xã Đông Anh, thành phố Hà Nội

GIỚI THIỆU

Chùa Mạch Tràng thuộc thôn Mạch Tràng là một trong 15 thôn, xóm thuộc xã Đông Anh. Theo truyền thuyết, trong thời kỳ An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa và tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu Đà, Mạch Tràng là khu vực chứa lương thảo của quân Âu Lạc. Có lẽ vì thế còn có tên gọi Mạch Dương, sau đó đến thời Ngô Quyền lại mở trường học tại thôn này, vì thế có tên gọi Mạch Tràng.
Chùa Mạch Tràng có tên chữ là “Quang Linh tự” (nghĩa là rực rỡ linh thiêng), nằm sát đình Mạch Tràng, khá gần khu đền thờ An Dương Vương và am công chúa Mỵ Châu. Chùa được xây dựng từ thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVIII) và mới được tu bổ lại vào năm 2001. Chùa có tổng diện tích gần 5.000m2. Kiến trúc chùa được bố cục theo kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm tam quan, gác chuông, chùa chính, nhà giải vũ, hai bên phía sau chùa là nhà thờ Tổ, điện thờ Mẫu gồm 5 gian tiền đường và 1 gian hậu cung. Trong tổng thể kiến trúc chùa thì cổng tam quan và chùa chính là hai công trình kiến trúc tiêu biểu nhất.
Tam quan chùa nằm trên đường trục chính của làng, bên cạnh đình. Tam quan được thiết kế kiểu gác chuông, mái chồng diêm hai tầng. Tam quan gác chuông với 3 gian có 4 vì kèo gỗ với gian giữa rộng hơn. Trên nóc vì giữa ghi niên đại xây dựng vào năm Khải Định thứ 5 (1920).
Hệ thống hiện vật trong chùa gồm 38 bức tượng tròn, tạo tác bằng chất liệu thổ, mộc chủ yếu được thờ ở thượng điện. Các lớp tượng này đều được sơn thếp kỹ lưỡng, thể hiện nghệ thuật tạo tác khá cao, có niên đại thế kỷ XVIII - XIX. Đáng chú ý là trong chùa có tượng hậu - một nam, một nữ, trang phục thể hiện thân thế quyền quý của hậu. Điều này đúng với việc truyền tụng rằng: Có một vị là quận chúa, con của chúa Trịnh và chồng bà đã có công trong việc dựng chùa nên được thờ hậu ở đây. Hai pho tượng hậu được đặt trên bệ sen bằng gỗ và được sơn son, thếp vàng kỹ lưỡng. Ngoài hệ thống tượng thờ Phật, thờ Mẫu, thờ Tổ, chùa còn lưu giữ được chuông đồng “Quang Linh tự chung” được đúc năm Nhâm Thìn 1952, một số đồ thờ như đỉnh hương, lọ hoa, đài lễ... bằng đồng.
Ngoài ra, chùa còn lưu giữ được 12 tấm bia đá, bia sớm nhất được dựng vào năm Tự Đức thứ 6 (1853), bia muộn nhất có niên hiệu Duy Tân năm thứ 5 (1911). Nội dung văn bia ghi lại việc chùa được khởi dựng từ thời Hậu Lê cuối thế kỷ XVIII, việc bầu hậu, tên các vị hậu, ruộng hậu và ruộng gửi giỗ.
Chùa chính tiếp liền sân với hai phần kiến trúc là tiền đường và thượng điện theo bố cục hình chữ “đinh”. Tiền đường có 5 gian 2 dĩ được làm kiểu khung gỗ lợp ngói ta, hai đầu hồi xây bít đốc, tay ngai, có trụ biểu, nền cao lát gạch. 
Thượng điện gồm 4 gian, chạy dọc nối tiền đường với kết cấu “thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền”. Trang trí trên kiến trúc đẹp mắt với hai cốn ván mê ở bộ vì giữa được chạm nổi như một phù điêu, đặc tả tứ linh quần tụ, long chầu, kết hợp với tứ quý. Đây là những tác phẩm khá đẹp của kiến trúc này. Tòa thiêu hương - thượng điện nối mái với gian giữa tiền đường gồm 4 gian 2 dĩ. Trên các gian của tòa thiêu hương - thượng điện đều có trang trí cửa võng và hoành phi câu đối có nội dung ca ngợi đức Phật. Bức cửa võng tại khu thượng điện được gọi là cửa võng Thiều châu với phong cách chạm lộng, chạm thủng, bong kênh, trang trí tứ linh tứ quý, linh vật rồng hay hổ phù đan xen hoa lá rất tinh xảo. Các cửa võng đều được sơn thếp kỹ lưỡng, mầu sắc rực rỡ. Có 7 hoành phi và câu đối được trang trí hoa dây chanh ở diềm, trên nền hồi văn và được sơn son thếp vàng. Hầu hết các bức chạm ở chùa Mạch Tràng mang đậm phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Nguyễn (thế kỷ XIX).
Nhà thờ Tổ và Mẫu có kết cấu 5 gian nhưng chỉ có 2 gian chuôi duộc ở phía sau. Hai hành lang được nối thông với nhau qua kiến trúc này tạo thành lối đi chung ở phía trước. Trước 2 bên hành lang có 2 tháp sư Tổ, ngoài ra còn một tháp khác đặt sau Tam quan, cạnh lối vào chùa. Các vị sư Tổ của chùa được tạc tượng, thờ tại 2 gian của tiền tế. Bên phải thờ sư Tổ, bên trái thờ Ân sư. Hàng năm giỗ Tổ được tổ chức trang trọng vào ngày 28 tháng 2 âm lịch.
Chùa Mạch Tràng còn là cơ sở truyền dạy thụ giới của các sư, tăng trong vùng, nơi đi hạ, đăng đàn, thỉnh kinh của giới Phật giáo. Từ năm 1946 đến 1949, chùa là trụ sở của Uỷ ban kháng chiến Miền.
Chùa Mạch Tràng đã được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 27/9/1997 và nằm trong cụm di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Cổ Loa năm 2012.

BẢN ĐỒ

ĐỊA ĐIỂM XUNG QUANH

Thôn Nhồi Dưới, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

1,12 km

Thôn Chùa - xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

1,22 km

Thôn Mạch Tràng, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội

0,06 km

Thôn Cầu Cả, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội

Thôn Thư Cưu, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội

2,26 km

Thôn Vang, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội

Thôn Sằn, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội

Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam

1,23 km

Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam

1,2 km

Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam

0,96 km

Trang thông tin điện tử Đông Anh 360

Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân xã Đông Anh

Chịu trách nhiệm chính: Phòng Văn hóa - Xã hội xã Đông Anh

  • Số 66 đường Cao Lỗ, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội
  • 0243.965.2973
  • [email protected]

Theo dõi tại: