CHÙA LÝ NHÂN (KIM TƯƠNG TỰ)

Thôn Lý Nhân, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội

GIỚI THIỆU

Lý Nhân là một làng cổ có từ lâu đời. Vùng đất này kề cận với Cổ Loa - kinh đô cổ của An Dương Vương, đất giữa làng có hình con rùa, người dân Lý Nhân có gốc tích từ Dục Tú rời sang, ban đầu lập trại ở cánh đồng Vữ nên thường gọi là làng Vữ. Sau đó là Phi Thôn. Tên Lý Nhân mới có sau Cách mạng tháng 8/1945.
Chùa Lý Nhân có tên chữ là “Kim Tương tự” thuộc thôn Lý Nhân, xã Đông Anh, một ngôi chùa nhỏ nằm ở trung tâm làng Lý Nhân. Căn cứ vào các di vật của chùa, nhất là các pho tượng tạo tác ở các thế kỷ XVIII - XIX, có thể đoán định chùa được xây dựng vào khoảng thời Hậu Lê và được trùng tu nhiều lần. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi chùa bị tàn phá, song nhân dân đã kịp thời giữ lại được các đồ thờ quý nhất là hệ thống tượng thờ có niên đại thời Hậu Lê. Sau đó chùa được trùng tu lại, quy mô nhỏ hơn và vẫn giữ được kiến trúc của ngôi chùa truyền thống.
Chùa bố cục kiểu chữ “đinh” gồm tiền đường và thượng điện. Qua cổng nhỏ dẫn vào sân chùa, các công trình được bố trí sát nhau, chính giữa là chùa chính, hai bên là nhà thờ Mẫu, thờ Tổ, nhà khách... 
Hàng năm, Lễ hội truyền thống thôn Lý Nhân được tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng nhằm tưởng nhớ công lao của Ả Lã Nương Đế phu nhân – Vị tướng có công phò trợ Hai Bà Trưng đánh giặc ngoại xâm. 
Lễ hội làng Lý Nhân ngoài nghi thức tế lễ, dâng hương còn có thi làm bánh dầy, còn gọi là Hội giã bánh dầy. Trước kia, Hội giã bánh dầy được tổ chức linh đình 3 ngày liên tục, nhằm vào ngày 30 tháng Mười một âm lịch, nối sang ngày mùng 1 và mùng 2 tháng Chạp (tháng Mười Hai âm lịch), còn gọi là hội Ba Chạp.
Lễ hội truyền thống làng Lý Nhân ngoài phần lễ còn có phần hội với những hoạt động văn hóa thể thao sôi nổi, các trò chơi dân gian như đấu vật, bịt mắt đập niêu…
Tiền đường có 5 gian 2 dĩ làm hướng Tây theo kiểu đầu hồi bít đốc tay ngai có trụ biểu. Bờ nóc trang trí hoa chanh, chính giữa đắp nổi 3 chữ “Kim Tương tự” là tên chữ của chùa. Xung quanh xây tường kín, 2 gian đầu hồi trổ cửa sổ chữ “thọ”, 3 gian giữa tạo hiên rộng lắp hệ thống cửa bức bàn. Kết cấu bộ vì 4 hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc đơn giản bằng hoa lá cách điệu, vân mây, văn triện lá giắt... Thượng điện được nối với tiền đường xây bệ gạch giật cấp để bài trí tượng Phật.
Bên trong thượng điện là không gian thờ tự chính, nơi đặt hệ thống tượng Phật theo thứ tự truyền thống. Ở vị trí trung tâm, trên án thờ cao là tượng Tam Thế Phật và tượng Thích Ca Mâu Ni. Phía trước có tượng A Di Đà, tiếp đến là các pho tượng Bồ Tát, Quan Âm Nam Hải nhiều tay, tượng Hộ Pháp, cùng các pho tượng Tổ sư và tượng Mẫu được sắp xếp cân đối hai bên. Toàn bộ hệ thống tượng được bài trí lớp lớp từ ngoài vào trong, thấp đến cao, tạo nên chiều sâu không gian linh thiêng và tôn nghiêm của chùa.
Bên phải chùa chính có 5 gian đặt nhà Tổ, nhà khách và trai phòng. Kết cấu tòa nhà này làm chồng cốn, kẻ chuyền, tiền kẻ, hậu bảy. 
Nhà Tổ là nơi thờ kính các vị Tổ sư, thiền sư, người sáng lập chùa, hoặc những người có công lớn với chùa.
Hồi của nhà Tổ và giáp liền với hồi chùa chính có điện mẫu gồm 2 gian, mái giáp thông với tiền đường và nhà Tổ.
Di vật quý giá nhất ở ngôi chùa chính là hệ thống tượng Phật mà dân làng đã cố gắng gìn giữ được qua chiến tranh. Trong chùa có tới hơn 40 pho tượng, chủ yếu chất liệu làm bằng gỗ, có vài pho tượng thổ, tất cả đều được sơn son thếp vàng, thếp bạc cẩn thận. Các pho tượng có niên đại của thế kỷ XVIII - XIX, cá biệt có pho tượng có niên đại sang thế kỷ XX. Đáng chú ý là pho tượng Quan Âm Nam Hải, đứng với tư thế 46 tay, đây là một pho tượng được điêu khắc tỷ mỉ, cầu kỳ và rất có giá trị. Các pho tượng khác có niên đại thế kỷ XVIII như tượng A Nan - Ca Diếp, 3 pho tượng Tam Thế Phật và tượng A Di Đà. Ngoài ra còn có quả chuông đồng được đúc năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), trên chuông có khắc bốn chữ lớn “Kim Tương tự chung” và bài minh chuông ghi chép lại công quả việc đúc chuông của chùa.
Di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia tại Quyết định số 1568/QĐ-BT ngày 20/4/1995.
 

BẢN ĐỒ

ĐỊA ĐIỂM XUNG QUANH

Thôn Đồng Dầu, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

0,97 km

Thôn Lý Nhân, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

0,22 km

Thôn Phúc Hậu, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội

1,84 km

Thôn Phúc Hậu 2, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

Thôn Thạc Quả, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

3 km

Thôn Nghĩa Vũ, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

2,2 km

Thôn Phúc Hậu, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

1,83 km

Thôn Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

1,55 km

Thôn Ngọc Lôi, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

4,16 km

Thôn Ngọc Lôi, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

4,2 km

Thôn Dục Tú, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

1,53 km

Xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội

2,39 km

Thôn Dục Tú, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội

1,26 km

Trang thông tin điện tử Đông Anh 360

Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân xã Đông Anh

Chịu trách nhiệm chính: Phòng Văn hóa - Xã hội xã Đông Anh

  • Số 66 đường Cao Lỗ, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội
  • 0243.965.2973
  • [email protected]

Theo dõi tại: