Thôn Thái Bình, xã Đông Anh, thành phố Hà Nội
Nhà thờ họ Trịnh là nơi tưởng niệm thờ phụng tổ tiên của một nhánh dòng họ Trịnh đã dựng nghiệp. Di tích hiện ở thôn Thái Bình (xưa có tên là Thái Đường), xã Đông Anh. Tên trang Cối Giang, làng Cói và Thái Đường được hình thành trong thời gian này.
Họ Trịnh định cư ở đất Thái Đường tính đến nay là hơn 500 năm. Theo gia phả dòng họ, mà sớm nhất là tấm bia “Đông Hoa Trịnh Tiến sĩ - Trịnh Tiến sĩ gia phả bi ký” soạn vào năm Bính Tý niên hiệu Chính Hòa 17 (năm 1696) thì cụ tổ đầu tiên của dòng họ Trịnh đến sinh cơ lập nghiệp trên đất này là cụ Trịnh Phúc Tâm cùng vợ hiệu Từ Duyên, xuất thân từ Sáo Sơn, Thanh Hoá.
Từ thế kỷ XVII trở đi, dòng họ có nhiều người học giỏi, đỗ đạt cao và có công với đất nước. Dưới chế độ phong kiến, họ Trịnh có 3 người đỗ Tiến sĩ, 2 người đỗ Sĩ vọng, 34 người đỗ Tứ trường và 70 người đỗ Tam trường.
Người đầu tiên là cụ Trịnh Biển ở đời thứ 6 đỗ đầu thi hương năm 1645, sau đó 2 lần đỗ tam trường. Đến đời thứ 7 có cụ Trịnh Đức Nhuận sinh năm Quý Tỵ (năm 1653) 17 tuổi đỗ Giải nguyên, năm 20 tuổi đỗ đầu khoa Sĩ vọng, năm 23 tuổi đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị (năm 1676). Khi mất, ông được phong tặng Hộ bộ Tả Thị lang, tước tử.
Trịnh Xuân Thụ, con của cụ Trịnh Đức Nhuận, 45 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1748), làm quan đến Đông các Đại học sĩ, tước bá. Khi mất ông được phong tặng hàm Thị độc. Năm Canh Thìn cùng niên hiệu trên (1760), ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh nộp cống. Trịnh Xuân Thụ còn để lại tác phẩm Sứ hoa học bộ thi tập.
Trịnh Xuân Thưởng tự là Đôn Mậu, dòng dõi của Tiến sĩ Trịnh Đức Nhuận. Ông đỗ cử nhân khoa Quý Mão (1843), 32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị 7 (năm 1847), làm quan đến Hàn lâm viện Biên tu, hàm Thị giảng, sung Sử quán Biên tu. Năm Nhâm Tý (1872), ông được bổ đi làm Đốc học Quảng Nam, sau làm Tư vụ Bộ Hình, chuyển làm Viên ngoại lang Tôn Nhân phủ, Lang trung.
Di tích nhà thờ họ Trịnh ngày nay nằm trong khu vực dân cư đông đúc, giữa khung cảnh cây xanh tươi mát và yên tĩnh của làng quê Thái Bình. Quần thể kiến trúc này bao gồm: Cổng, nhà bia, khu thờ tự là tiền tế và cấm cung.
Cổng vào nhà thờ được xây dựng đơn giản, cửa vào hình vòm, phía trên có ô chữ nhật đắp 4 chữ Hán “Trịnh từ đường môn” (Cửa nhà thờ họ Trịnh).
Theo “Bài bia ký sự làm lại nhà thờ” gắn trên tường hồi nhà tiền tế, có thể thấy rõ nhà thờ họ Trịnh từ ngày khởi dựng cho tới nay đã nhiều lần trùng tu sửa chữa và xây dựng lại. Bia ghi: “Cụ quận ta (cụ Trịnh Đức Nhuận) gặp thuở thái bình, vận nhà long thịnh, chở gỗ đá từ Thanh Hoá về làm nhà thờ”. Như vậy, lần đầu tiên xây dựng của nhà thờ họ Trịnh là từ năm 1696, cùng với năm dựng tấm bia trụ ghi lại gia phả của dòng họ. Sau sự kiện dân làng Thái Đường hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Cai Vàng, làng Cói bị triệt hạ, nhà thờ bị đốt. Năm 1867, cụ Trịnh Tư Thận đứng lên trông coi, làm lại nhà thờ. Lần sửa chữa lớn thứ 3 là sau năm 1891, khi đó nhà nước dời đê vào trong phía Bắc làng, làng thành ra đất bãi, nhà thờ năm nào cũng bị ngập, bà huyện Lương Phúc huý thị Nhung đã đứng lên trông nom việc này. Năm 1936, do sự đổi dòng của sông Đuống, đất lở đến sát nhà thờ, cả họ đã quyết định dời nhà thờ vào xây dựng lại trong đê. Khối kiến trúc hiện nay là kết quả của lần xây dựng này. Người đứng ra lo liệu và chủ trì việc di chuyển xây dựng lại nhà thờ lần thứ 4 là cụ Trịnh Xuân Nghĩa.
Nhà che bia mới được xây dựng năm 1993, làm theo kiểu 2 tầng 8 mái, trên đỉnh đắp hình trái bầu, các góc mái đắp hình đầu rồng hướng cong lên đỉnh mái. Giữa nhà đặt tấm bia trụ 4 mặt, bia được đặt trên nền đá đen sang trọng.
Nhà thờ họ Trịnh còn lưu giữ một tấm bia lục gia phả dựng năm Chính Hòa thứ 17 (1696), khám thờ, ngai thờ, bát hương đá... mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Đây là một trong những tấm bia gia phả cổ nhất của huyện Đông Anh và là một di vật hiếm quý, có giá trị cao về mặt lịch sử và nghệ thuật của nhà thờ họ Trịnh.
Khu thờ tự chính gồm tiền tế và hậu cung nằm song song theo kiểu chữ “nhị”, mặt quay về hướng Đông Nam và cách nhà bia một khoảng sân gạch.
Tiền tế được xây kiểu tường hồi bít đốc, mái ngói đấu nắm cơm, bờ dải chạy thẳng và xây giật cấp ở phần hiên. Mặt trước tiền tế mở 3 cửa bức bàn. Hiện tại, nhà tiền tế chỉ là nơi tiếp khách và họp họ, phía trên gần mái treo 2 bức hoành phi, tường hồi bên trái có gắn một tấm bia đá nói về việc di chuyển và xây mới ngôi từ đường này.
Hậu cung nằm song song và cách tiền tế một khoảng sân nhỏ. Nhìn chung kiến trúc của cấm cung gần với nhà tiền tế, cũng được xây dựng kiểu tường hồi bít đốc. Mặt trước cấm cung mở 3 cửa lớn, cửa giữa treo một bức hoành phi. Đây là nơi thờ tự chính và là nơi thâm nghiêm trang trọng nhất của nhà thờ, vì vậy phần kiến trúc ở đây cũng được chú ý hơn, thể hiện rõ nét nghệ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Bên trong hậu cung ở cả 3 gian đều có 3 bệ thờ xây gạch. Bệ ở giữa lớn nhất đặt một khám thờ gỗ, trong đặt 4 bài vị thờ 2 cụ Phúc Tâm và 2 cụ Phúc Mẫn, là các cụ tổ đời thứ nhất và thứ hai của dòng họ.
Bệ thờ bên phải đặt một ngai gỗ là nơi thờ cụ Trịnh Đức Nhuận, người đỗ Tiến sĩ đầu tiên, cùng con trai cụ là Trịnh Công Thiếp mở đầu cho truyền thống khoa bảng của họ Trịnh. Bệ thờ trái đặt 2 ngai gỗ thờ 2 cụ Trịnh Trí Thạch và Trịnh Đức Duệ.
Hàng năm vào mỗi dịp đầu xuân (15 tháng Hai), dòng họ lại tổ chức lễ Xuân tế, tế cáo với tổ tiên về những thành tích của con cháu đã đạt được trong năm. Truyền thống học hành, thi cử đỗ đạt của dòng họ ngày càng được phát huy, xứng đáng là một trong 12 “Thế gia vọng tộc” của xứ Kinh Bắc xưa, được cuốn “Phong thổ Hà Bắc thời Lê” ghi nhận.
Nhà thờ họ Trịnh được xếp hạng Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp Quốc gia tại Quyết định số 423 QĐ/VH/1997 ngày 20/2/1997.
Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân xã Đông Anh
Chịu trách nhiệm chính: Phòng Văn hóa - Xã hội xã Đông Anh